Tương lai đối với ACTs: ngoài điều trị ca bệnh riêng lẻ và các hoạt động “phòng chống” tích cực

Trong chương trình phòng chống sốt rét, ACTs được sử dụng chủ yếu để giảm tỷ lệ mắc và tử vong do sốt rét, đặc biệt là ở trẻ em có thể điều trị hiệu quả các triệu chứng ca bệnh.

Như các nước chuyển từ kiểm soát đến loại trừ, phòng chống sốt rét và tăng cường giám sát. Vai trò chính của thuốc chống sốt rét có thể sau đó chuyển sang điều trị nhắm mục tiêu trọng điểm còn lại của ca nhiễm KST và điều trị cá nhân để hạn chế lây truyền bệnh sốt rét thông qua việc giảm người mang ký sinh trùng. Điều này đòi hỏi hệ thống giám sát chặt chẽ để triển khai kịp thời các nguồn lực cho các cộng đồng có nhu cầu, quan trọng nhất là điều trị thường xuyên các ca bệnh mắc sốt rét một cách nhanh chóng và thích hợp.

Thu thập dữ liệu về các ca bệnh sốt rét mới, ví dụ, thông qua việc sử dụng tin nhắn SMS, có thể cho phép triển khai nhanh chóng các nguồn cung cấp bổ sung và các biện pháp can thiệp, bao gồm cả ACTs, để hạn chế lây truyền. Nguồn lực chăm sóc sức khỏe nhắm mục tiêu đầy đủ cho các ổ lây nhiễm là một trong những cách để đảm bảo thuốc chống sốt rét được sử dụng có hiệu quả trong giai đoạn loại trừ. Bằng cách này, điều trị có thể làm giảm ký sinh trùng nhanh chóng, giảm giao bào và lây nhiễm từ người do muỗi truyền, do đó làm giảm lây truyền. Điều quan trọng cần lưu ý việc quản lý ca bệnh thực hành tốt nhất với các hình thức nền tảng ACTs của bất kỳ chiến lược loại trừ và rất quan trọng cho sự thành công. Để đạt được điều này, có thể cần kết hợp điều trị ACTs với một thuốc điều trị tiệt căn như primaquine để đạt được điều trị triệt để.

Có những lo ngại liên quan đến việc sử dụng rộng rãi primaquine do tác dụng phụ ở những người có glucose-6-phosphate dehydrogenase (G6PD) và khó khăn trong việc phát hiện đáng tin cậy sự thiếu hụt này.

Trong khu vực có bệnh sốt rét theo mùa, người mang giao bào không có triệu chứng được cho là góp phần vào sự tồn tại của ký sinh trùng trong mùa khô. Ở các điểm nóng sốt rét, các cá nhân bị nhiễm nhưng không có triệu chứng đã đóng góp vào sự tái nhiễm trong cộng đồng khi quần thể muỗi phát triển trong mùa mưa. Ở các vùng có sốt rét lưu hành, lên đến 78 % dân số mang P. falciparum không thể hiện bất kỳ triệu chứng lâm sàng nào.

Khi những người mang KST không triệu chứng không được dùng thuốc, một chiến lược chuyên biệt là cần thiết để phát hiện và tiếp theo là điều trị. Một loạt các phương pháp tiếp cận điều trị nhắm mục tiêu không có triệu chứng đã được thí điểm bao gồm dùng thuốc hàng loạt (Mass drug administration MDA), sàng lọc toàn bộ cộng đồng và điều trị nhắm mục tiêu, sàng lọc các điểm nóng và điều trị có trọng điểm, như thể hiện trong hình 1. Tuy nhiên, người ta nhận ra cơ thể có khả năng miễn dịch một cách tự nhiên sẽ làm giảm sự lây truyền, do đó làm cho loại trừ khó khăn hơn.

Hình 1. Mô hình thể hiện sự khác biệt giữa các phương pháp điều trị khác nhau: kiểm tra trọng điểm và điều trị, khám sàng lọc cộng đồng và điều trị nhắm mục tiêu, sàng lọc tất cả các cá nhân trong một khu vực nhất định và sau đó xử lý người mang KST và dùng thuốc hàng loạt.

TS. Phùng Đức Truyền
(Lược dịch từ Trends in Parasitology February 2013, Vol. 29, No. 2)

Sponsor links (Provided by VIEPortal.net - The web cloud services for enterprises)
Thiết kế web, Thiết kế website, Thiết kế website công ty, Dịch vụ thiết kế website, Dịch vụ thiết kế web tối ưu, Giải pháp portal cổng thông tin, Xây dựng website doanh nghiệp, Dịch vụ web bán hàng trực tuyến, Giải pháp thương mại điện tử, Phần mềm dịch vụ web, Phần mềm quản trị tác nghiệp nội bộ công ty,