Tỷ lệ huyết thanh dương tính và tính bền vững của miễn dịch dịch thể kháng lại SARS-CoV-2 ở người dân sống tại Vũ Hán, Trung Quốc

Sự xuất hiện bệnh COVID-19, do vi rút SARS-CoV-2, đã dẫn đến một cuộc khủng hoảng sức khỏe cộng đồng toàn cầu chưa từng có. Gần 60% các trường hợp được xác nhận ở Vũ Hán (Trung Quốc), nơi phát hiện dịch bệnh COVID-19 đầu tiên. Thông qua lệnh phong tỏa các hoạt động nghiêm ngặt, bắt đầu vào ngày 23 tháng 1 và kéo dài đến ngày 8 tháng 4 năm 2020, sự lan truyền vi rút SARS-CoV-2 ở Vũ Hán đã nhanh chóng được ngăn chặn. Trong thời gian phong tỏa, các hoạt động kiểm soát dịch bệnh được thực hiện, bao gồm phát hiện chủ động và cách ly ca bệnh, truy tìm và cách ly những trường hợp tiếp xúc gần, kiểm soát phương tiện giao thông và hạn chế đi lại, giữ khoảng cách, đóng cửa trường học và nhà máy, kiểm dịch tại nhà. Với sự lan truyền của COVID-19 sang các quốc gia khác, việc tuyên bố về đại dịch toàn cầu và sự phát triển của vắc xin, đánh giá tỷ lệ dân số đã bị nhiễm bệnh và những người đã được miễn dịch là điều quan trọng hàng đầu để xác định các chiến lược phòng ngừa và kiểm soát hiệu quả giảm khả năng bùng phát trở lại của đại dịch trong tương lai.

Nhiễm vi rút SARS-CoV-2 có thể được xác định bằng các phản ứng miễn dịch dịch thể, tỷ lệ phát hiện các trường hợp không có triệu chứng là không chắc chắn, với ước tính từ 6,3% đến 96,0%. Do những người bị nhiễm nhẹ có thể không đi khám bệnh và những người không có triệu chứng thường không được sàng lọc, tỷ lệ lưu hành của SARS-CoV-2 có thể bị đánh giá thấp hơn so với thực tế vì phần lớn dựa trên số trường hợp được báo cáo. Nói chung, việc xác định tỷ lệ phần trăm kháng thể, đặc biệt là các kháng thể trung hòa, kháng lại SARS-CoV-2 từ các cuộc điều tra huyết thanh ở cộng đồng, đây là thông tin để đánh giá tỷ lệ dân số đã bị nhiễm vi rút tại một thời điểm nào đó và cung cấp thông tin cần thiết cho việc thiết kế các chương trình tiêm chủng. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu về đáp ứng miễn dịch dịch thể ở Trung Quốc chỉ liên quan đến một số ít người khỏe mạnh tham gia hoặc nhóm thuần tập được chọn (ví dụ: nhân viên chăm sóc sức khỏe, người nhiễm HIV, nhân viên khách sạn), điều này có thể không đánh giá được tình trạng miễn dịch cộng đồng trong quần thể dân cư. Hơn nữa, trong nghiên cứu này, việc đo nồng độ kháng thể trung hòa (NAb) không được thực hiện đồng thời với xét nghiệm sự hiện diện của các Ig ở từng trường hợp, vì qui trình này cần được thực hiện tại các phòng thí nghiệm an toàn sinh học cấp 3. Do đó, thông tin về cơ chế chuyển đổi tự nhiên trong huyết thanh để tạo ra kháng thể bảo vệ cho các trường hợp nhiễm SARS-CoV-2 bị hạn chế. Các nghiên cứu trước đây cho rằng kháng thể kháng lại SARS-CoV-2 được duy trì trong ít nhất 4 tháng; tuy nhiên, tính ổn định của các miễn dich dịch thể chống lại SARS-CoV-2 sau khi bị nhiễm tự nhiên mà không cần tiếp xúc lặp lại vẫn cần được làm rõ thêm với thời gian theo dõi dài hơn.

Phương pháp nghiên cứu

Hình 1. Sơ đồ nghiên cứu

Nghiên cứu cắt ngang theo dõi dọc, sử dụng phương pháp chọn mẫu phân tầng ở cộng đồng dân cư, ngẫu nhiên theo cụm một cách có hệ thống từ 13 huyện của Vũ Hán. Các hộ gia đình được lựa chọn từ mỗi nhóm cộng đồng và tất cả các thành viên trong gia đình đều được mời đến các trung tâm chăm sóc sức khỏe cộng đồng để tham gia. Những cá nhân đủ điều kiện là những người đã sống ở Vũ Hán ít nhất 14 ngày kể từ ngày 1 tháng 12 năm 2019. Tất cả những người đủ điều kiện tham gia phải hoàn thành bảng câu hỏi về nhân khẩu học, lâm sàng và tự báo cáo bất kỳ triệu chứng nào liên quan đến COVID-19 hoặc chẩn đoán COVID-19 trước đó. Lấy máu tĩnh mạch để xét nghiệm miễn dịch từ ngày 14 đến ngày 15 tháng 4 năm 2020. Mẫu máu được xét nghiệm để tìm sự hiện diện của pan-immunoglobulin, kháng thể IgM, IgA và IgG kháng lại protein nucleocapsid SARS-CoV-2 và các kháng thể trung hòa được đánh giá. Thực hiện hai lần tái khám và lấy máu liên tiếp từ ngày 11 tháng 6 đến ngày 13 tháng 6 và từ ngày 9 tháng 10 đến ngày 5 tháng 12 năm 2020.

Hình 2. Số ca mắc mới hàng ngày và thời gian nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu

Trong số 4.600 hộ gia đình được lựa chọn ngẫu nhiên, 3.599 gia đình (78,2%) với 9.702 cá nhân đã tham dự cuộc điều tra cơ bản. 9.542 cá nhân từ 3.556 gia đình có đủ điều kiện để phân tích. 532 (5,6%) trong số 9.542 người tham gia dương tính với pan-globulin miễn dịch chống lại SARS-CoV-2, với tỷ lệ huyết thanh ước tính là 6,92% (KTC 95% 6,41–7,43) trong dân số. 437 (82,1%) trong số 532 người tham gia dương tính với pan-immunoglobulin không có triệu chứng. 69 (13,0%) trong số 532 cá nhân dương tính với kháng thể IgM, 84 (15,8%) dương tính với kháng thể IgA, 532 (100%) dương tính với kháng thể IgG và 212 (39,8%) dương tính để các kháng thể trung hoà tại thời điểm ban đầu.

Tuy nhiên, hiệu giá kháng thể trung hòa ở những người không có triệu chứng thấp hơn so với những trường hợp đã khẳng đinh và có triệu chứng. Mặc dù hiệu giá của IgG giảm theo thời gian, nhưng tỷ lệ cá nhân có kháng thể IgG giảm không đáng kể (từ 30/30 [100%] lúc ban đầu xuống 26/29 [89,7%] ở lần theo dõi thứ hai trong số các ca bệnh khẳng định, 65/65 [100%] tại thời điểm ban đầu còn 58/63 [92,1%] ở lần theo dõi thứ hai trong số những người có triệu chứng và 437/437 [100%] ở lần theo dõi đầu xuống 329/362 [90,9%] ở lần theo dõi thứ 2 giữa các cá nhân không có triệu chứng).

Hình 3. Thay đổi hiệu giá của các kháng thể kháng lại SARS-CoV-2 theo thời gian ở 335 người tham gia nghiên của 3 đợt xét nghiệm trong suốt thời gian nghiên cứu

Kết luận

Chỉ có 6,92% dân số ở Vũ Hán được lựa chọn trong nghiên cứu cắt ngang phát triển kháng thể kháng lại SARS-CoV-2, với 39,8% dân số này có khả năng chuyển đổi tự nhiên trong huyết thanh để tạo ra kháng thể trung hòa. Dữ liệu về tính bền vững của miễn dịch dịch thể cho thấy cần phải tiêm phòng vắc xin hàng loạt để bảo vệ cộng đồng nhằm ngăn chặn sự bùng phát trở lại của dịch bệnh.

BS. Nguyễn Văn Hoàn

Bài viết được lược dịch từ: https://www.thelancet.com/journals/lancet/article/PIIS0140-6736(21)00238-5/fulltext?dgcid=raven_jbs_etoc_email