Bệnh Whitmore

Bệnh Whitmore, còn gọi là bệnh melioidosis, là bệnh truyền nhiễm cấp tính nguy hiểm do vi khuẩn Burkholderia pseudomallei gây nên.

B. pseudomallei sống trong đất, vì thế đường lây nhiễm chính là qua tiếp xúc các vết trầy xước trên da với đất hoặc nước có vi khuẩn. Lây nhiễm qua đường hô hấp khi hít phải các hạt bụi đất có vi khuẩn.

Chưa có bằng chứng về lây bệnh giữa người với người hoặc lây từ động vật sang người qua đường không khí. Vì thế, các ca bệnh Whitmore thường lác đác, lẻ tẻ chứ không bùng phát thành dịch.

Thời gian ủ bệnh trung bình 9 ngày. Các triệu chứng thường xuất hiện khi tiếp xúc vi khuẩn từ 2 - 4 tuần.

Các thể bệnh melioidosis gồm:

  • Nhiễm trùng phổi: Phổ biến nhất, biểu hiện của nhiễm trùng phổi có thể từ viêm phế quản nhẹ đến viêm phổi nặng, có thể hình thành áp xe. Bệnh nhân có thể bị sốt, nhức đầu, chán ăn, ho, khó thở, đau ngực, đau nhức cơ.
  • Nhiễm trùng cục bộ: nhiễm trùng trên da, đau hoặc sưng, loét và áp xe, kèm theo sốt và đau cơ.
  • Nhiễm trùng máu: khi vi khuẩn xâm nhập vào máu, gây sốt, nhức đầu, suy hô hấp, khó chịu ở bụng, đau khớp ...
  • Nhiễm trùng lan toả: Bệnh có thể lây lan từ da qua máu, có thể trở thành một dạng melioidosis mạn tính ảnh hưởng đến tim, não, gan, thận, khớp và mắt.

Chẩn đoán bệnh Whitmore chính xác phải dựa trên các xét nghiệm phân lập và định danh vi khuẩn trong mẫu bệnh phẩm máu, mủ, đờm, nước tiểu hoặc dịch não tủy.

Bệnh Whitmore được coi là "kẻ mạo danh" vì bệnh không có những biểu hiện lâm sàng rõ ràng và thường bị chẩn đoán nhầm với các bệnh khác như viêm phổi, lao phổi, áp xe cơ, nhiễm trùng huyết do các vi khuẩn khác như tụ cầu, liên cầu...

Bệnh gặp ở mọi đối tượng từ trẻ sơ sinh đến người già, người khỏe mạnh cho đến người có hệ miễn dịch yếu.

Ở người lớn, đa số bệnh nhân mắc bệnh có biểu hiện viêm phổi kèm nhiễm khuẩn huyết, viêm bàng quang, có các vết mưng mủ trên da, một số trường hợp còn có biểu hiện viêm cơ, viêm khớp hoặc viêm màng não.

Ở trẻ em, tỷ lệ mắc bệnh chiếm 5-15% tổng số ca. Trong đó, khoảng 35% có biểu hiện viêm mủ tuyến nước bọt mang tai, 65% thể khác như sốt cao, viêm phổi, áp xe ở lách và thận, cũng có thể biểu hiện khu trú như ổ nhiễm khuẩn trên da, đặc biệt ở vùng đầu, mặt và cổ. Diễn biến nặng có thể gây sốc nhiễm khuẩn huyết dẫn đến tử vong.

Bệnh phân bố chủ yếu ở Đông Nam Á và phía Bắc Úc, thường gặp vào mùa mưa, tại Việt Nam, khoảng 70% ca nhập viện trong thời gian từ tháng 9 đến tháng 11. Số bệnh nhân tăng tỷ lệ thuận với lượng mưa. Đa số bệnh nhân là nông dân, tuổi từ 50 đến 70 tuổi.

Điều trị bệnh chia làm 2 pha: Pha điều trị tấn công và pha duy trì uống kháng sinh. Phải dùng kháng sinh (thường là nhóm ceftazidime) tiêm tấn công liều cao kéo dài liên tục trong ít nhất khoảng 2 tuần, sau đó tiếp tục dùng kháng sinh duy trì khoảng từ 3 đến 6 tháng nữa, bệnh dễ tái phát. Tỷ lệ bệnh nhân tử vong rất cao (40%). Bệnh chưa có vắcxin phòng.

Để phòng tránh bệnh Whitmore, nên áp dụng các biện pháp phòng bệnh như sau:

  • Đối với những người tiếp xúc nhiều môi trường đất và nước phải có phương tiện bảo hộ lao động, nếu có trầy xước ngoài da cần điều trị sớm và triệt để.
  • Người bệnh tiểu đường, bệnh phổi và bệnh thận mạn tính có nguy cơ dễ mắc bệnh này với các biểu hiện lâm sàng đa dạng nên cần lưu ý.
  • Đối với người bình thường, hạn chế tiếp xúc với bùn đất tránh nguy cơ bị nhiễm vi khuẩn.
  • Không chủ quan trước các dấu hiệu của bệnh như: Sốt, viêm phổi và có ổ áp xe ở nhiều vị trí (đa áp xe), nhiễm trùng đường tiết niệu.

Ban Biên tập website Viện

Sponsor links (Provided by VIEPortal.net - The web cloud services for enterprises)
Thiết kế web, Thiết kế website, Thiết kế website công ty, Dịch vụ thiết kế website, Dịch vụ thiết kế web tối ưu, Giải pháp portal cổng thông tin, Xây dựng website doanh nghiệp, Dịch vụ web bán hàng trực tuyến, Giải pháp thương mại điện tử, Phần mềm dịch vụ web, Phần mềm quản trị tác nghiệp nội bộ công ty,