Tình hình kháng thuốc sốt rét ở khu vực Đông Nam Á trong năm qua đã đến mức độ báo động. Thông qua Tạp chí Lancet, tác giả Chanaki Amaratunga và các đồng nghiệp có báo cáo thứ ba về sự thất bại lâm sàng đáng kể của phác đồ phối hợp dihydroartemisinin-piperaquine tại Campuchia. Trong một nghiên cứu thực hiện trên người lớn ở ba tỉnh cách nhau riêng biệt, họ phát hiện thấy mức độ kháng không giống nhau, trong đó tỉnh Pursat ở phía Tây có mức độ kháng lớn nhất. Họ phát hiện thấy có sự liên quan giữa thất bại điều trị với sự hiện diện của đột biến kháng thuốc kelch 13 và kháng piperaquine trong phòng thí nghiệm, mặc dù cả hai đều không phổ biến ở các tỉnh phía bắc và phía đông trong nghiên cứu của họ. Ngoài ra, báo cáo của họ về mô hình bổ sung của các dấu hiệu phân tử kháng với piperaquine và mefloquine phù hợp với các báo cáo trước đó, điều đó cho thấy có thể sử dụng mefloquin hoặc kết hợp mefloquine và piperaquine để điều trị như trước đây có thể có hiệu quả.
Mặc dù việc sử dụng lại phương pháp điều trị kết hợp mefloquin có thể dùng như là một giải pháp tạm thời, thất bại của artesunate-mefloquine tại Campuchia đã được báo cáo gần đây nhất là 2009. Sự kháng mefloquine có khả năng quay trở lại một cách nhanh chóng vào thởi điêm hiện nay khi sử dụng artesunate-mefloquine thay thế dihydroartemisinin-piperaquine là liều điều trị ưu tiên hàng đầu ở những nơi kháng artemisinine được phổ biến ở Campuchia theo như hướng dẫn điều trị. Mặc dù liệu pháp kết hợp ba loại mefloquine và piperaquine với artemisinin có thể chứng minh hiệu quả, tiềm năng ảnh hưởng đồng thời của cả hai loại thuốc và khả năng an toàn vẫn chưa được đánh giá trong các khảo sát. Những kết quả không thuận lợi trong nghiên cứu sẽ gây tranh cãi cho vòng tròn điều trị này, nhưng điều này có thể chứng minh sự hợp lý của những khó khăn. Vẫn còn một vài phác đồ điều trị thay thế để lựa chọn. Atovaquone-proguanil đã được sử dụng ở một số vùng được chọn của Campuchia với thành công hạn chế, mặc dù chi phí và các số liệu mô phỏng cho thấy việc kháng có thể xuất hiện một cách nhanh chóng khi được sử dụng rộng rãi. Artesunate-pyronaridine đã được giới thiệu tại Campuchia trong năm ngoái, nhưng lần điều trị thử nghiệm đầu tiên tại Campuchia vào năm 2007, đã thất bại ở tỷ lệ đáng kể bệnh nhân.Việc phát triển những loại thuốc mới vẫn còn ít nhất là vài năm nữa trước khi ứng dụng trong lâm sàng.
Mặc dù nghiên cứu cộng đồng đã theo kịp thực tế bằng việc thực hiện các nghiên cứu chất lượng cao để xác định và khảo sát mức độ của vấn đề, nhưng phương pháp tiếp cận thực tế để ngăn chặn việc gia tăng kháng thuốc lại kém hiệu quả. Thực hiện thành công việc kết hợp thuốc mới rất cần thiết cho việc cải tiến những quy định của thuốc sốt rét, tạo được sự linh hoạt cho các mạng lưới cung cấp và phân phối thuốc, và tăng cường trách nhiệm của y tế công cộng. Việc tiếp cận hiệu quả tiềm năng mặc dù hiếm khi được thảo luận sẽ được thừa nhận ở các bệnh viện cho tất cả các bệnh nhân sốt rét tại Campuchia, đảm bảo việc tuân thủ quan sát điều trị trực tiếp. Một chiến lược được sử dụng trong chương trình kiểm soát bệnh lao đã được sử dụng từ lâu ở Campuchia đó là phát hiện chủ động kết hợp với liệu pháp quan sát trực tiếp rất có hiệu quả cả về tính khả thi và chi phí. Chúng tôi và các đồng nghiệp đã mô tả sự liên quan của những khu vực quân đội trong việc loại trừ sốt rét, nổi bật là thành công của quân đội ở Philippine với việc nhập viện bắt buộc để đảm bảo điều trị đầy đủ, tránh trường hợp mất bệnh. Cách tiếp cận này cần được xem xét ở Campuchia, nơi có số bệnh nhân sốt rét đã giảm nhanh chóng trong thập kỷ qua. Việc điều trị nội trú cho bệnh sốt rét hiện nay có thể thực hiện được, đặc biệt là cho thời gian nằm điều trị lưu trú ngắn hơn so với điều trị bệnh lao.
Việc quan sát trực tiếp bệnh nhân điều trị nội trú không chỉ giảm áp lực của việc kháng thuốc tăng lên khi điều trị không đủ liều, mà nó còn có thể xác định hiệu quả của việc điều trị KST trước khi cho về nhà. Nó cũng giảm khả năng lây truyền bằng việc đảm bảo độ an toàn của sự tán huyết trong giám sát điều trị primaquine, và cô lập bệnh nhân tại các địa điểm đang được tập trung kiểm soát vector có thề được áp dụng trong lúc họ phục hồi. Kết hợp phương pháp này với một chương trình theo dõi chủ động để đảm bảo điều trị kịp thời tái phát sẽ đặt một nền móng vững chắc cho phác đồ điều trị mới trong cuộc chiến loại trừ bệnh sốt rét ở khu vực.
Chúng tôi công bố không có lợi ích cạnh tranh. Quan điểm thể hiện trong bài viết này là của các tác giả và không phản ánh chính sách chính thức của Cục Quân đội, Bộ Quốc phòng, hoặc Chính phủ Hoa Kỳ.
ThS. Phạm Nguyễn Thúy Vy